IV. THỜI KỲ CẬN ĐẠI (1802 – 1975) Năm 1802, vua Gia Long thống nhất sơn hà vẫn theo gương xưa của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1631). Nhà vua cho thành lập xưởng súng đại bác, mở trường bắn huấn luyện voi, ngựa và trường huấn luyện võ kinh, võ lâm cho binh sĩ. Ở những nơi hiểm yếu, vua chỉ thị cho lập đồn ải. Tại các cửa bể và đảo, vua cho lập ra pháo đài. Ngoài ra, vua còn cho lập ra xưởng đóng tàu đồng, và huấn luyện thủy quân để đề phòng mặt biển. Năm 1820, vua Minh Mạng đã chia binh đội ra thành bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh và pháo binh. Bộ binh gồm có kinh binh và cơ binh. Kinh binh chia làm doanh, vệ, đội. Kinh binh dùng để đóng giữ ở kinh thành hoặc để sai phái đóng giữ ở các tỉnh. Mỗi doanh có năm vệ, mỗi vệ có mười đội, mỗi đội có năm chục người. Mỗi đội có suất đội và đội trưởng cai quản. Những binh khí của mỗi vệ gồm có hai khẩu súng thần công, hai trăm khẩu súng điểu thương và hai mươi mốt ngọn cờ. Còn cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũ
Võ thuật cổ truyền Việt Nam: kiến thức võ thuật truyền thống và hiện đại, Binh khí võ thuật